Nội Soi Mật Tuỵ Ngược Dòng ERCP
16-04-2025
ERCP (Endoscopic retrograde cholangiopancreatography) là từ viết tắt của nội soi mật tụy ngược dòng. Đây là một thủ thuật chuyên biệt được thường được sử dụng để chẩn đoán và điều trị đồng thời các bệnh về hệ thống dẫn mật và ống tuyến tụy. (1)
Trong quá trình thực hiện ERCP, bác sĩ sẽ sử dụng một ống nội soi có camera nhìn phía bên – gọi là ống nội soi tá tràng để kiểm tra bên trong hệ tiêu hóa. Ống nội soi này được đưa đến chỗ đổ vào tá tràng của ống mật và ống tuyến tụy. Tiếp theo, một ống thông nhỏ sẽ được luồn vào ống mật hoặc ống tụy để bơm thuốc cản quang vào ống mật và soi dưới màn hình X-quang để chẩn đoán bệnh của ống mật.
Bác sĩ sẽ thực hiện thủ thuật điều trị như lấy sỏi ống mật chủ hoặc ống gan chung, đặt stent qua chỗ hẹp, nong chỗ hẹp… ngay khi xác định được chẩn đoán.
Người bệnh sẽ được bác sĩ gây mê cho ngủ bằng cách sử dụng thuốc an thần hoặc thuốc ngủ thông qua một dây dịch truyền ở cánh tay.
Bác sĩ sử dụng một ống nội soi có camera nhìn phía bên, khác với ống soi dạ dày camera nhìn phía trước, gọi là ống nội soi tá tràng để thực hiện ERCP. Ống nội soi tá tràng được đưa qua miệng, thực quản, dạ dày và tá tràng đến chỗ đổ vào tá tràng của ống mật và ống tuyến tụy.
Một ống bằng nhựa nhỏ được luồn vào ống mật, hoặc ống tụy (nếu kiểm tra bệnh trong tụy), thuốc cản quang sau đó được tiêm vào đường mật và được soi chụp dưới màn hình X-quang. Nếu bệnh lý được nhìn thấy, thủ thuật điều trị được sẽ thực hiện như là lấy sỏi ống mật chủ hoặc ống gan chung, đặt stent qua chỗ hẹp, nong chỗ hẹp… các biện pháp này thường đòi hỏi phải cắt cơ vòng chổ ống mật đổ vào thành tá tràng.
ERCP là thủ thuật xâm lấn và ngày nay thường được sử dụng để điều trị là chính:
ERCP không được chỉ định trong các trường hợp: Thiếu bằng chứng về bệnh lý mật hoặc tụy, khi có sẵn các công cụ chẩn đoán an toàn hơn, trong trường hợp đau bụng không rõ nguyên nhân và khi ERCP không thay đổi kế hoạch điều trị đã có trước đó.
Biến chứng thường gặp nhất là tình trạng viêm tụy (xảy ra 5-10%), chảy máu (<5%), nhiễm trùng đường mật (<5%), thủng (vỡ thành ruột) (1-2%), việc gây mê có thể dẫn đến suy giảm chức năng hô hấp và tim mạch. Trong một số trường hợp hiếm hoi, có thể phải phẫu thuật để xử lý biến chứng hoặc nhập viện trong một thời gian để điều trị biến chứng. (3)
Các biến chứng khác bao gồm các phản ứng dị ứng, tổn thương răng do răng bị khiếm khuyết từ trước và chấn thương đối với thanh quản. Khàn tiếng nhẹ, khó nuốt hoặc đầy hơi khó chịu (do không khí tồn đọng trong dạ dày và ruột sau khi làm thủ thuật) có thể xảy ra tạm thời sau ERCP.
Cần lưu ý, trong vòng 72 giờ sau ERCP, nếu có bất kỳ triệu chứng nào trong số các triệu chứng như như đau bụng nhiều, sốt hoặc đi tiêu ra máu, tiêu phân đen như bã cà phê… người bệnh phải đến bệnh viện ngay lập tức để bác sĩ kiểm tra, kịp thời xử lý – Bác sĩ Khanh khuyến cáo.
ERCP được coi là một thủ tục có rủi ro thấp, tuy nhiên, các biến chứng có thể xảy ra như viêm tụy, nhiễm trùng, thủng ruột và chảy máu. Trong đó, những người đang được áp dụng ERCP để điều trị, nhất là điều trị sỏi mật sẽ có nguy cơ biến chứng cao hơn những người được áp dụng ERCP cho việc chẩn đoán. Do đó, người bệnh nên tuân thủ nghiêm ngặt các chỉ dẫn của bác sĩ trước, trong và sau quá trình ERCP.
Nội soi mật tụy ngược dòng ERCP được sử dụng cho hai mục đích chính bao gồm:
Nội soi mật tụy ngược dòng cho phụ nữ có thai thì nguy cơ biến chứng cao hơn người bình thường. Một số biến chứng nguy hiểm có thể đe dọa đến thai kỳ như co thắt dẫn đến sảy thai.
Tuy nhiên, nội soi mật tụy ngược dòng không được chỉ định cho cho phụ nữ mang thai. Trước khi làm thủ thuật người bệnh được kiểm tra sức khỏe trong đó có việc kiểm tra xem có mang thai hay không. Nếu đang mang thai, bác sĩ sẽ không thực hiện thủ thuật này.